Sách Khảo Cứu Bùa Đạo Giáo – Huyền Chân Tử

299.000 

Khảo Cứu Bùa Đạo Giáo

Tác giả: Huyền Chân Tử

Năm Giáp Ngọ 2014

Mô tả

Khảo Cứu Bùa Đạo Giáo

Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ. Riêng về Đạo giáo, chính tư tưởng Hoàng Lão (Hoàng Đế 黃帝 – Lão Tử 老子) hay tư tưởng Đạo gia, Vu thuật (巫術, shamanism), và khát vọng trường sinh bất tử đã dẫn đến sự hình thành tôn giáo này.

Trong Đạo giáo, có nhiều tông phái; mỗi tông phái có sự hình thành, cơ cấu và hoạt động, ảnh hưởng đối với triều đình và quần chúng khác nhau. Có ba giáo phái tiêu biểu, xuất hiện vào thời kỳ ban đầu của Đạo giáo, đó là: Ngũ Đấu Mễ Đạo (五斗米道), Thái Bình Đạo (太平道), và Bạch Gia Đạo (帛家道).

Đạo giáo Trung Quốc có nhiều tông phái (tức giáo phái). Thuật ngữ tông (宗) và phái (派) đồng nghĩa nhau và Đạo giáo hay dùng lẫn lộn phái và tông để đặt tên. Người Tây phương thường dùng chữ sect để dịch chữ phái và chữ school để dịch chữ tông. Thực tế, tuy tông và phái đồng nghĩa nhau, nhưng Phật giáo có xu hướng dùng chữ tông và Đạo giáo có xu hướng dùng chữ phái. Trong vài chục tông phái của Đạo giáo Trung Quốc, ngoài thuật ngữ tông và phái, thuật ngữ đạo và giáo cũng được dùng. Nhưng các thuật ngữ này được dùng không theo quy tắc nào cả và cũng không hề có sự so sánh về qui mô lớn nhỏ giữa các thuật ngữ ấy. Ở đây dùng thuật ngữ “giáo phái” là một thuật ngữ phổ thông, có thể dùng cho một tôn giáo bất kỳ.

Giáo phái đầu tiên là Ngũ Đấu Mễ Đạo (五斗米道), xuất hiện vào đời Đông Hán (東漢, 25-220), triều vua Thuận Đế (順帝, 126-144). Sau đó, giữa những năm Kiến Ninh (建寧) và Hi Bình (熹平, 168-177) dưới triều Hán Linh Đế (漢靈帝, 168-189), Thái Bình Đạo (太平道) được hình thành. Cho đến đời Đông Tấn (東晉, 317-420) và Nam Bắc Triều (南北朝, 420-589), có thêm nhiều giáo phái xuất hiện như Thượng Thanh (上清), Linh Bảo (靈寶), Lâu Quán (樓觀), v.v… Đến đời Nam Tống (南宋, 1127-1279) và đời Kim (金, 1115-1234), phía Bắc xuất hiện Toàn Chân Đạo (全真道), Chân Đại Đạo (真大道), Thái Nhất Đạo (太一道), v.v… và phía Nam xuất hiện Thiên Tâm Phái (天心派), Thần Tiêu Phái (神霄派), Thanh Vi Phái (清微派), Đông Hoa Phái (東華派), Tịnh Minh Đạo (靜明道), v.v… Đó là giai đoạn phát triển cực thịnh của Đạo giáo.

Trong lịch sử phát triển của Đạo giáo, người ta thấy rằng tùy theo sự biến thiên của xã hội mà nhiều giáo phái suy vong, thì lại có tân giáo phái ra đời. Có khi do hoàn cảnh xã hội, một giáo phái nhỏ sáp nhập với một giáo phái khác, hoặc một giáo phái lớn bị phân hoá thành chi phái nhỏ hơn. Đó là hiện tượng hưng (興) – suy (衰) – phân (分) – hợp (合) trong lịch sử phát triển khoảng 2000 năm của Đạo giáo Trung Quốc. Thí dụ:

• Ngũ Đấu Mễ Đạo đã trải qua hai cuộc cải cách do đạo sĩ Khấu Khiêm Chi (寇謙之, Bắc Ngụy) và đạo sĩ Lục Tu Tĩnh (陸修靜, Nam Triều Tống) tiến hành. Khấu Khiêm Chi cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo (tức Thiên Sư Đạo) ở phương bắc nên nhánh này gọi là Bắc Thiên Sư Đạo, còn Lục Tu Tĩnh cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo ở phương nam nên nhánh này gọi là Nam Thiên Sư Đạo. Đến đời Tùy thì Nam và Bắc Thiên Sư Đạo hợp nhất làm một. Khoảng đời Đường sử sách không chép rõ diễn biến của Thiên Sư Đạo. Sau đời Đường, cháu của Trương Lăng (tương truyền là Trương Thịnh (張盛), con thứ 4 của Trương Lỗ) tiếp tục truyền giáo tại Long Hổ Sơn ở Giang Tây. Núi này dần trở thành một trung tâm truyền bá Thiên Sư Đạo và giáo phái mang tên mới là Long Hổ Tông (龍虎宗) theo tên của nơi truyền đạo là Long Hổ Sơn, cũng gọi là Long Hổ Sơn Thiên Sư Đạo.
• Thượng Thanh Phái đến đời Đào Hoằng Cảnh (陶弘景) thì lấy Mao Sơn làm trung tâm truyền đạo, nên gọi là Mao Sơn Tông (茅山宗).
• Lý Gia Đạo từ đời Đông Tấn về sau thì nhập vào Thiên Sư Đạo.

• Linh Bảo Phái đến đời Bắc Tống thì phân hoá thành Đông Hoa Phái; đến đời Nguyên thì nhập vào Chính Nhất Đạo.

• Lâu Quán Đạo suy thoái vào đời Nguyên, được Toàn Chân Đạo khôi phục, nên nhập vào Toàn Chân. v.v…

Cho dù do những điều kiện chủ quan và khách quan dị biệt như thế nào, thì các giáo phái có một đặc điểm chung là: xuất hiện vào những thời kỳ mà xã hội bị phân hóa, nảy sinh nhiều mâu thuẫn, và nhân dân lầm than khốn khổ. Thí dụ như:

• Ngũ Đấu Mễ Đạo (五斗米道) và Thái Bình Đạo (太平道) xuất hiện vào cuối đời Đông Hán lúc mà tình hình chính trị tối tăm mục nát, khủng hoảng kinh tế nặng nề.

• Thượng Thanh Phái (上清派) và Linh Bảo Phái (靈寶派) xuất hiện vào đời Đông Tấn bị suy yếu do các nước phân tranh.

• Các giáo phái phương Bắc (như Toàn Chân Đạo 全真道, Chân Đại Đạo 真大道, Thái Nhất Đạo 太一道, …) và các giáo phái phù lục phương Nam (như Thiên Tâm Phái 天心派, Thần Tiêu Phái 神霄派, Thanh Vi Phái 清微派, Đông Hoa Phái 東華派, …) xuất hiện vào đời Bắc Tống (北宋, 960-1127) là thời hai vua Huy Tông (徽宗) và Khâm Tông (欽宗) bị giặc bắt giữ, và đời Nam Tống (南宋, 1127-1279) là một thời kỳ loạn lạc liên miên.

Với hoàn cảnh xã hội tao loạn điêu linh trong cơn binh lửa như vậy, các giáo phái đã ra đời như một điểm tựa tâm linh cho quần chúng vốn dĩ quá ngao ngán trước thế cuộc và băn khoăn đau xót về thân phận phù du của kiếp người.

Khảo Cứu Bùa Đạo Giáo - Huyền Chân Tử
Khảo Cứu Bùa Đạo Giáo – Huyền Chân Tử

Đánh giá

There are no reviews yet

Chỉ những khách hàng đã đăng nhập và mua sản phẩm này mới có thể đưa ra đánh giá.